Đình tế Tư văn ở Tiên Điền,
thiết lập khi Nguyễn Nghiễm làm Tế tửu Quốc tử giám. Ảnh tư liệu bảo tàng Hà
Tĩnh
Đầu thời Hậu Lê, câu chuyện giáo dục - khoa cử ở Nghi Xuân đã phát triển mạnh mẽ. Năm 1076, nhà Lý lập Văn miếu Quốc Tử Giám ở kinh thành Thăng Long, thờ Khổng Tử và đào tạo nhân tài. Thời Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập tại Huế. Tại các địa phương lộ, phủ, huyện…cũng lập Văn miếu, Văn thánh, Văn chỉ. Triều đình bổ dụng những người có kiến thức uyên thâm, đức độ giữ chức Tế tửu Quốc tử giám, Tư nghiệp Quốc tử giám. Họ làm nhiệm vụ tập bài, khảo hạch đào tạo nhân tài giúp việc cho triều đình. Tế tửu, Tư nghiệp là bậc đại khoa, nổi tiếng về tài năng và đức độ. Ở Nghi Xuân, có Nguyễn Nghiễm từng giữ cương vị Tế tửu Quốc tử giám vào đời vua Lê Ý Tông, sau đó ít lâu kiêm chức Trung thư giám Quốc tử giám. Tại các địa phương lộ, phủ, huyện cũng có miếu Tư văn (Tế đinh) Văn thánh, Văn chỉ để tập bài, thờ cửa Khổng sân Trình và lễ cầu khoa. Các lộ, phủ, huyện thì đặt chức Huấn đạo, Giáo thụ để trông coi việc học hành, thi cử của học trò.
Theo tìm hiểu, hình thức dạy và học cơ bản được các gia đình mời thầy đồ về nhà ngồi truyền thụ cho con em mình. Học trò được dạy chữ Hán, chữ Nôm, học văn cơ bản là tứ thư, ngũ kinh, luận ngữ, trung dung, đại học và dạy võ nghệ, binh thư, trận pháp. Khi thầy hết chữ nghĩa, văn chương thì phải chia tay trò. Gia chủ tìm đón thầy giỏi hơn về dạy dỗ con em mình. Cứ như vậy, cha mẹ mời thầy về dạy - học cho con em, đến khi đủ tri thức dự thi Hương, thi Hội, thi Đình, đỗ đạt bổ ra làm quan.
Bên cạnh hình thức mời thầy về nhà dạy học, có một số nhà nho ở ẩn, hoặc nghỉ hưu cũng mở trường dạy học. Trong trào lưu phát triển, các địa phương trong huyện cũng thiết lập Văn thánh, Văn chỉ để làm nơi luyện văn thơ và hoạt động vì đạo học. Theo sách Nghi Xuân địa chí của Lê Văn Diễn, đình tế Tư văn (Văn Miếu hàng huyện) từ niên hiệu Long Đức vua Lê Thuần Tông được tổ chức ở xã Xuân Viên, khoảng niên hiệu Vĩnh Hữu, Lê Ý Tông (1735- 1740), Xuân quận công Nguyễn Nghiễm cho dời về xã Tiên Điền.
Theo sách địa chí, đầu đời nhà Nguyễn, Nghi Xuân đã có trường học của nhà nước. Nghi Xuân địa chí chép “Học xá đặt ở xã Uy Viễn (thị trấn Nghi Xuân). Xây dựng năm Nhâm Thìn (1832) đời Minh Mệnh. Lúc đó ông Nguyễn Ngạn quê Hưng Yên làm Huấn đạo.” Tất cả chi phí đào tạo, phụ huynh phải trực tiếp trả cho thầy giáo. Nhà nước chỉ phân công quan lại đứng ra tổ chức các kỳ thi sát hạch tuyển chọn nhân tài dự thi cử, đỗ thì ra làm quan.
Văn miếu tổng Phan xá vừa
được phục dựng trên nền cũ
Truyền thống học hành hầu như đều khắp huyện, nhưng nổi trội hơn cả là các xã Tiên Điền, Xuân Mỹ, Xuân Yên, Xuân Viên và thị trấn Nghi Xuân. Người đầu tiên ở Nghi Xuân được tuyển Giám sinh Quốc tử giám vào thời thuộc Minh là ông Phan Nhân, người xã Xuân Mỹ. Ông Phạm Ngữ cũng có di tích ở xã Xuân Mỹ là người khai mở khoa bảng đầu tiên của đất học Nghi Xuân. Xã này không kém gì đất Tiên Điền, có đến 5 vị đỗ tiến sỹ là Phạm Ngữ, Hoàng Ngạn Chương, Nguyễn Ngọc Huấn, Phan Chính Nghị và Phan Cảo. Đặc biệt, xưa ở đây có trường học của ông Phan Văn Giáp. Sách Nghi Xuân địa chép: “Nền học đường làng Văn ở xã Phan xá. Xưa có người tên là Phan Văn Giáp, cháu của Phan Chính Nghị, dựng học xá để dạy học. Nền học xá nay vẫn còn.”...
Ông đồ Nghệ ở huyện Nghi Xuân, nhiều người đào tạo học trò tài năng, đỗ đạt cao trong các khoa thi Hội, thi Đình. Nguyễn Nghiễm là một ông đồ Nghệ đích thực. La sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, một danh sĩ nổi tiếng nước Nam, người hiến kế sách giúp vua Quang Trung đuổi giặc Thanh và xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô là học trò cưng của Tế tửu Nguyễn Nghiễm. Còn ông đồ Nguyễn Tôn Kỳ, người làng Tả Ao, đỗ thi Hương, khoa năm 1705, (được sung chức Thị nội Văn chức), nhưng không ra làm quan chỉ ở nhà dạy học. Tản quận công tiến sỹ Nguyễn Khản là học trò của ông đồ Kỳ. Ông đồ Đậu Doãn Cung, người xã Đan Hải cũng có nhiều đóng góp, đào tạo nhân tài cho quê hương Nghi Xuân. Ông đậu thi Hương vào năm 1762, đời Cảnh Hưng, được bổ làm Huấn đạo phủ Diễn Châu. Nhà Lê đổ, ông ở nhà dạy học, học trò theo học với ông rất đông. Tiến sĩ Võ Thời Mẫn, cử nhân Ngụy Khắc Thận, Lê Trọng Thức đều là học trò của thầy Cung.
Các ông đồ Nghệ mỗi người một vẻ, không ai giống ai. Ông đồ Hà Đăng Châu, quê ở xã Tiên Điền lại có công với làng xã. Thi đỗ năm 1783, đời Cảnh Hưng, là người thẳng thắn, thật thà, thường lấy ân nghĩa đối xử với mọi người. Ông nghiên cứu sâu, viết văn giỏi, nổi trội về thơ phú và chữ viết. Vì chân bị tật, ông không ra làm quan, ở nhà dạy học. Học trò theo ông học tập khá đông. Là tấm gương ăn ở thu phục nhân tâm, ông thường chia sẻ giúp đỡ người nghèo, khuyến khích học điều tốt đẹp, với hành vi xấu thì rất nghiêm khắc. Nhờ vậy mà làng xóm yên ổn, ít khi xẩy ra những việc tranh chấp, thị phi. Ông còn bỏ tiền túi ra nạp thuế rừng thay cho dân làng, giúp họ không phải vào rừng đốn gỗ lim nạp thuế bằng hiện vật. Dân làng biết ơn, đã tôn thờ ông làm hậu thần.
Câu chuyện những ông đồ Nghệ thời xưa ở đất học Nghi Xuân là một sự thật, được người xưa chép trong sách Nghi Xuân địa chí. Câu chuyện thật nhân văn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc trong mọi thời đại: Thầy nghiêm túc, hiền lương, đức độ mới cho ra lò những học trò ngoan. Thầy giỏi mới có học trò giỏi.
Đặng Viết Tường